4. Đề kiểm tra chính thức - Nộp bài

  • Due No due date
  • Points 10
  • Questions 23
  • Time Limit 62 Minutes

Instructions

KIỂM TRA HỆ SỐ 3

MÔN ĐỌC VÀ DIỄN ĐẠT – KHỐI 9

THỜI GIAN: 60 PHÚT

I. PHẦN NGHE - HIỂU (3.0 ĐIỂM)

HS nghe văn bản và trả lời 3 câu hỏi bên dưới (từ câu 1 đến câu 3)

 

II. PHẦN ĐỌC - HIỂU (7.0 điểm)

- HS đọc văn bản 1 và trả lời từ câu 4 đến câu 13

- HS đọc văn bản 2 và trả lời từ câu 14 đến câu 23

HS tải file văn bản đọc tại đây: 2122-HK1-Đ_DĐ9-Van ban doc.docx  

Hoặc đọc trực tiếp văn bản dưới đây:

Văn bản 1:

ĐI MÁY BAY AN TOÀN ĐẾN MỨC NÀO?

[…] Mặc dù các tai nạn máy bay dồn dập, máy bay vẫn là phương tiện giao thông an toàn nhất mà trí tuệ con người đã sáng tạo ra. Người làm hàng không như tôi và đi lại bằng máy bay rất nhiều lại càng tin điều đó.

(*) Một số người nghĩ đi lại trên mặt đất an toàn hơn so với bay trên trời, vì ở trên mặt đất nếu xảy ra chuyện gì còn dừng xe, dừng tàu được, còn đang bay trên trời thì chịu. Đó chỉ là cảm giác tâm lý, không có cơ sở cả khoa học và thực tiễn nào.

(**) Khi đi ôtô, tàu hỏa, tàu biển, nếu không phải là người lái, bạn giao phó tính mạng của bạn cho người lái. Việc có “kịp dừng” hay không (khi sắp xảy ra tai nạn) không phải nằm ở bạn, mà ở người lái. Trong hầu hết vụ tai nạn xảy ra trên đường bộ và đường thủy, hành khách hoàn toàn không nhận thức được tai nạn đang cận kề để kịp hành động. Phần lớn hành khách chỉ biết sau khi nó đã xảy ra. Đáng tiếc hơn, nhiều người còn không có cơ hội nhận biết tai nạn vì họ bị chết ngay.

Ngay cả với một người tự lái xe (ôtô, xe máy), tai nạn thường xảy ra khi người đó không thấy được nguy cơ cận kề, hoặc thấy được khi đã không còn đủ khả năng ngăn chặn được tai nạn nữa, dù do lỗi của người khác hay của chính mình. Vì thế người đời thường an ủi bằng câu: “Cái số nó thế!”.

Các máy bay được thiết kế, thử nghiệm và sản xuất với tiêu chuẩn an toàn rất cao. Để một loại máy bay được phê chuẩn, nhà chế tạo máy bay buộc phải chứng minh với nhà chức trách hàng không là máy bay của họ vẫn đảm bảo an toàn khi các bộ phận, máy móc chính gặp sự cố kỹ thuật khi đang bay. Họ phải chứng minh ngay cả trong trường hợp tất cả động cơ trên máy bay bị “chết”, máy bay vẫn “lượn” và hạ cánh được xuống một khu đất hoặc mặt nước.

Trong quá trình thử nghiệm và phê chuẩn máy bay, các phi công thử nghiệm có lúc phải tắt hết động cơ trong khi bay để kiểm tra, đo đạc tính năng “lượn” và hạ cánh không động cơ. Họ còn thực hiện nhiều đề bài thử nghiệm nguy hiểm khác. Một số phi công thử nghiệm đã phải trả giá bằng tính mạng để một loại máy bay được phê chuẩn. Tất cả vì sự an toàn cho hành khách đi máy bay.

Ngày 15/1/2009, chiếc Airbus A320 của hãng hàng không US Airways đã chứng minh tính năng “lượn” và hạ cánh trên sông Hudson (New York, Mỹ) với cả hai động cơ bị hỏng hoàn toàn (do một đàn ngỗng đâm vào). Tổ lái đã “lượn” máy bay đáp an toàn xuống mặt sông. Máy bay nổi trên sông như một con tàu, đủ thời gian để tất cả hành khách, tổ bay thoát ra an toàn.

(***) Tai nạn máy bay có nguyên nhân khởi điểm khác nhau: do thời tiết, do kỹ thuật, do lỗi phi công, bị tấn công từ trong máy bay, bị tấn công từ ngoài máy bay. Tuy nhiên, theo thống kê, kết cục phần lớn là do lỗi con người liên quan đến các nguyên nhân đó. Máy bay có thể bị tai nạn do gặp bão, nhưng yếu tố con người ở đây là tại sao biết có bão mạnh vẫn bay? Máy bay có thể gặp sự cố kỹ thuật khi đang bay, nhưng cái làm nó bị rơi lại là sự mất bình tĩnh dẫn đến sai lầm của phi công khi xử lý sự cố kỹ thuật đó; nếu xử lý đúng, hậu quả có thể đã được ngăn ngừa hoặc giảm thiểu.

Khi rủi ro đến từ yếu tố con người, do con người, không ai nói trước được điều gì, cả ở mặt đất và trên trời, cả trong hàng không và ngoài hàng không.

Văn bản 2:

TIỀN ĐÃ HOẠT ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO?

(*) Giá trị của tiền vỏ ốc và đồng đô-la chỉ nằm trong trí tưởng tượng thông thường của chúng ta. Giá trị của chúng không nằm trong cấu trúc hóa học của những cái vỏ ốc và tờ giấy, hay màu sắc và hình dáng của chúng. Hay nói cách khác, tiền không phải là một thực tại vật chất – nó là một khái niệm tâm lý. Nó hoạt động bằng cách biến đổi từ vật chất thành tinh thần. Nhưng tại sao nó lại thành công? Tại sao bất kỳ ai cũng sẵn sàng đổi những cánh đồng lúa màu mỡ để lấy một nhúm tiền vỏ ốc vô dụng? Tại sao bạn sẵn lòng lật bánh hamburger, bán bảo hiểm sức khỏe hay trông coi ba đứa trẻ ngỗ ngược đáng ghét, khi mà tất cả sự cố gắng của bạn chỉ đổi lại được một vài tờ giấy màu sắc sặc sỡ?

(**) Con người sẵn sàng làm những việc như vậy khi họ tin tưởng vào những điều tưởng tượng của trí tưởng tượng tập thể của họ. Lòng tin là một dạng vật chất thô, mà từ đó tất cả các loại tiền được đúc ra. Khi một nông dân giàu có bán tài sản của mình để đổi lấy một bao tải tiền vỏ ốc và mang chúng theo đến vùng đất khác, ông ta tin tưởng rằng, khi tới đích của mình, những người khác sẽ sẵn sàng bán cho ông ta thóc gạo, nhà cửa và những cánh đồng để đổi lấy những đồng tiền vỏ ốc. Như vậy, tiền là một hệ thống của sự tin cậy lẫn nhau, và không chỉ có vậy: tiền là một hệ thống phổ quát nhất và hiệu quả nhất của sự tin cậy lẫn nhau từng được phát minh ra.

[…] Ban đầu, khi phiên bản đầu tiên của tiền được tạo ra, con người không có được loại niềm tin này, vì vậy cần phải xác định tất cả những thứ có giá trị thực chất bên trong là “tiền”. Một ví dụ rất hay là loại tiền đầu tiên trong lịch sử, tiền lúa mạch của người Sumer. Nó ra đời ở Sumer khoảng năm 3.000 TCN, cùng thời gian, địa điểm và trong cùng một hoàn cảnh với sự xuất hiện của chữ viết. Giống như chữ viết phát triển để đáp ứng những nhu cầu tăng cường các hoạt động hành chính, tiền lúa mạch phát triển để đáp ứng những nhu cầu tăng cường các hoạt động kinh tế.

Tiền lúa mạch đơn giản chỉ là lúa mạch – lượng lúa mạch cố định được dùng làm thước đo phổ quát cho việc đánh giá và trao đổi tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ. Đơn vị đo lường phổ biến nhất là sila, tương đương với xấp xỉ 1 lít. Những cái bát định chuẩn, thể tích 1 sila, được sản xuất đại trà để bất cứ khi nào con người cần mua hoặc bán thứ gì đó, họ sẽ dễ dàng đong ra lượng lúa mạch cần thiết. Tiền lương cũng vậy, được ấn định và trả bằng những sila lúa mạch. Một lao động nam có thể kiếm được 60 sila mỗi tháng, một lao động nữ có thể kiếm được 30 sila. Một đốc công có thể kiếm được từ 1.200 đến 5.000 sila. Một đốc công ăn nhiều nhất cũng không thể tiêu thụ được hết 5.000 lít lúa mạch một tháng, nhưng ông ta có thể dùng những sila không ăn hết để mua tất cả các loại hàng hóa khác – dầu, dê, nô lệ và lương thực nào đó ngoài lúa mạch.

(***) Cho dù lúa mạch có giá trị nội tại, song cũng không dễ thuyết phục mọi người dùng nó như tiền chứ không phải chỉ là một loại hàng hóa khác. Để có thể hiểu được tại sao, hãy nghĩ đến những gì sẽ xảy ra nếu bạn mang một bao tải đầy lúa mạch đến trung tâm mua sắm khu vực mình, và tìm cách mua một cái áo sơ mi hoặc một chiếc pizza. Những người bán hàng có thể sẽ gọi bảo vệ. Nhưng làm cho người ta tin vào lúa mạch như một dạng tiền đầu tiên vẫn còn có phần dễ hơn, bởi vì lúa mạch có một giá trị sinh học cố hữu. Con người có thể ăn nó. Nhưng mặt khác, rất khó tích trữ và vận chuyển tiền lúa mạch. Bước đột phá thực sự trong lịch sử tiền tệ xuất hiện khi con người đặt niềm tin vào loại tiền không có giá trị cố hữu, nhưng dễ tích trữ và vận chuyển hơn. Loại tiền như vậy xuất hiện ở vùng Lưỡng Hà cổ đại vào giữa thiên nhiên kỷ 3 TCN. Nó là đồng shekel bạc.

 Một shekel bạc không giống như đồng tiền kim loại, mà đúng hơn là 8,33 gram bạc. Khi bộ luật Hammurabi tuyên cáo một người ưu tú nếu giết một nữ nô thì phải trả cho người chủ của cô ta 20 shekel bạc, có nghĩa là ông ta phải trả 166 gram bạc, chứ không phải là 20 đồng tiền kim loại. […]

(****) Không giống như sila lúa mạch, shekel bạc không có giá trị cố hữu. Bạn không thể ăn bạc, uống bạc hay mặc bạc lên người, vả lại nó cũng quá mềm nên không làm ra được những dụng cụ hữu ích – những lưỡi cày hay những thanh gươm bằng bạc sẽ nhăn nhúm giống như làm từ những lá nhôm vậy. Nếu được chế tác thành cái gì đó, thì vàng và bạc thường được dùng để tạo tác thành đồ trang sức, vương miện và các biểu tượng về địa vị xã hội khác – những mặt hàng xa xỉ mà các thành viên của một nền văn hóa nhất định đánh đồng với địa vị xã hội cao. Giá trị của nó thuần túy mang tính văn hóa.

--HẾT--

Only registered, enrolled users can take graded quizzes